AcDieu225
Co Vang Tammy

Free Hit Counters
Web Site Hit Counters

Acdieu

Trần Mộng Tú và tuyển tập “Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm1969-2009”

Mặc Lâm, phóng viên RFA
Nhà thơ Trần Mộng Tú là khuôn mặt quen thuộc của giới thưởng ngoạn thơ hải ngoại từ đầu những thập niên 80 khi bà vừa đặt chân đến Mỹ với tư cách một người tỵ nạn.

Tran mong Tu
Nhà thơ Trần Mộng Tú. Photo courtesy of Mạng Lưới Dũng Lạc.
Trần Mộng Tú là tác giả của
nhiều tập thơ và người đọc thơ bà nhanh chóng tăng theo thời gian kể từ khi những
trang thơ đầu tiên xuất hiện trong cộng đồng hải ngoại.
Thơ của bà chủ yếu là thơ
tình, nhưng đây là những bài thơ tình khó tìm trong tủ sách các nhà thơ nữ của
thời cận đại. Thơ của Trần Mộng Tú thả lỏng ngôn ngữ để chúng có thể buông mình
rơi tự do xuống khoảng trống suy tưởng và thăng hoa thành thứ tinh chất kết
dính bài thơ với người đọc chúng.
“Tôi rời Việt Nam vào
ngày 2 tháng Tư năm 1975 do hãng thông tấn AP nơi tôi làm việc tại Việt Nam đưa
tôi và gia đình ra đi. Lúc đó tôi còn độc thân họ thu xếp cho tôi và bố mẹ đi với
nhau.

Sang Mỹ năm 1975 coi
như tôi làm tờ báo đầu tiên là Quê Hương xuất bản. Mấy người tham gia đầu tiên
gồm có Du Tử Lê, Trần Mộng Tú, Hoàng Khởi Phong, Hoàng Chính Nghĩa và một vài
người nữa làm tờ bào đó chung với nhau.

Tôi bắt đầu đem những
bài thơ của mình ra đăng từ năm 1975, mặc dù trước đó tôi cũng có làm thơ nhưng
chưa bao giờ đăng báo vì tôi thấy không có nhu cầu cần đăng báo. Sang tới Mỹ thấy
tiếng Việt ngày càng hiếm hoi, thấy anh em gia nhập vào báo chí tôi tham gia
theo và từ đó tôi làm rất nhiều thơ về quê hương.”

Hôm nay chúng tôi xin được
giới thiệu tới quý thính giả tập “Thơ
Tuyển Bốn Mươi Năm1969-2009” của Trần Mộng Tú, một trong nhiều tác phẩm của bà
đã được in ra tại Hoa Kỳ.
Mặc dù tác giả cho rằng tập thơ này không nhất thiết chứa đựng những bài thơ hay nhất
của mình, nhưng ít ra cũng tập trung hầu hết những bài thơ quan trọng của từng
chặng thời gian qua suốt bốn mươi năm sáng tác.

Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa

Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
em tủi như chim khuyên
khóc trong lồng son mới

Hãy tưởng tượng ra em
ở một thành phố khác
em buồn như nước sông
khóc chia dòng tan tác

Bài thơ quý vị vừa nghe được
Trần Mộng Tú sáng tác vào tháng 7/1975, ba tháng sau khi Trần Mộng Tú đặt chân
xuống Mỹ. Thành phố tạm dung bà và gia đình dường như cũng thở dài cho cái không
khí thê lương trong tâm hồn nhà thơ lúc ấy.

Cũng những tiếng than khô
không lệ nhưng những giòng thơ của bà nghe ra có thấp thoáng hơi hám của mùa
xuân lấp ló trong tiếng thở dài của buổi ban đầu ngỡ ngàng nơi xứ lạ. Con chim
khuyên trong lồng có thể đang khóc, đang tủi bởi màu sơn son cộng với thếp vàng
chóa ngời đôi mắt, nhưng con chim họ Trần ý thức rất rõ chiếc lồng hẹp này chỉ
là giai đoạn ban đầu, giai đoạn rét mướt trước khi mùa Xuân tới.

Bài thơ nổi tiếng của bà
mang tên “Cả một dòng sông đứng lại chờ” có không khí của giòng nhạc thính
phòng những năm đầu thập niên 60. Vần bằng đều đặn ở cuối mỗi câu thơ khiến người
đọc liên tưởng tiếng vọng của những bản thánh ca buồn vào cuối ngày Chúa Nhật.
Lễ Misa nào thống thiết trong nỗi nhớ của nhà thơ, nhớ từng hơi ấm làn da, nhớ
mài miệt từng hơi thuốc thơm vàng tay cháy môi thơm phức.

Tôi xa người nắng buồn trên vai

môi tôi mùi thuốc còn thơm hơi

người xa tôi một dòng sông trắng

dãy núi bên kia có ngậm ngùi 

Tôi xa người hàng cây bâng khuâng

nước dâng chiều xuống nhớ muôn trùng

người xa tôi có còn đứng ngóng

một cánh chim bay ở cuối rừng

Nỗi buồn đeo bám Trần Mộng Tú dai dẳng nơi xứ người, cho dù khi đã lấy chồng, đã bước ra đường với một cái
họ mới, họ của nhà chồng. Nhà thơ thấm thía nỗi nhớ nhà, nhớ người, nhớ từng cọng
rơm sợi tóc, cái nhớ mà người Việt trong những năm 80 vẫn canh cánh như Trần Mộng
Tú. Bà không nhớ một mình, nhưng cái nhớ của bà khác người, thật khác.
Tôi ở quê chồng xa xăm quá
cách quê cha cả một đại dương
mỗi độ xuân về tôi ngơ ngác
như con ngựa trận mất yên cương

Mỗi độ xuân về tôi nhớ lắm
những ngày xuân cũ trên quê hương
nhớ người tình cũ, ngôi chùa cũ
hoa mẫu đơn nở đỏ bên tường

Bài thơ “Tôi buồn như một nốt dương cầm” được bà viết năm 1984 thật sự là một tiếng ngân nhẹ nhưng thăm thẳm của nỗi buồn. Mùa Xuân đến một lần nữa nhưng Mùa Xuân khoác lên vai chiếc áo khác với chiếc áo Trần Mộng Tú quen biết từ nhiều chục năm trước. Ngôi nhà chơ vơ lạnh và trống vắng. Các con tung tăng đến trường trong khi bà đứng một mình, buồn như một con chim đuối sức.

Có thật mùa xuân đã đến đây
sao lòng tôi không đổi mới
sáng nay đưa con đi học
các con vẫn mặc đồng phục
và trong túi thì không
có một phong bao

tôi trở về,
buồn như một con chim
con chim bay về từ
phương nam

không tìm thấy tổ

Ngôi nhà cũng cô đơn đứng chơ vơ
trên ngọn đồi ngập gió
những cánh đồng cửa sổ
đóng im
trên bàn một bài thơ viết dở… một chuyện tình cố quên

Chuỗi buồn phiền cứ đeo đuổi
bà trong suốt nhiều chục năm tại xứ người. Buồn là âm thanh của mọi bài thơ
trong tuyển tập. Buồn từ động tác, từng hơi thở và từng hành động thường nhật.
Cái buồn của Trần Mộng Tú không phải ai cũng được gặp. Nó miên man và bất ngờ.
Nó không lộ ra nhưng ăn mòn ký ức. Nỗi buồn của sự chết và hơn thế nữa, nỗi buồn
như những vết cắt, cào xước tâm hồn.

Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt
khói có bay về tận cố hương vườn người tôi chiết
cành xuân thắm
nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn.

Tran Mong Tu

Nhà thơ Trần Mộng Tú. Photo courtesy of Blog Nguyễn Xuân Hoàng.
Mùa Xuân đối với Trần Mộng Tú hình như đã qua và không trở lại nhưng tháng Giêng
thì vẫn rất quê nhà trong tâm trí bà. Tháng Giêng xuất hiện lại qua lăng kính
trời Tây với những đứt khúc trí nhớ. Vườn sau nhà, khung cửa vắng và mùa Xuân ướt
sũng…những tập hợp hình ảnh này làm thơ bà hình tượng hơn nhưng vẫn không mất
nét lãng mạn của một cơn bão tháng Giêng, bão rất nhẹ nhưng đủ làm cho ai đó
trăn trở, nhớ thao thiết một khung trời, một sắc lá.

Vườn tôi gầy quá hoa không nở
mưa ở nơi đây ướt sũng xuân
những cành thông gẫy ôm đầy gió
khung cửa nhà ai nhận vết thương

Mưa gió đuổi nhau qua thớ gỗ
que diêm xòe thảng thốt trong đêm
nến như mắt bão trừng bóng tối
một mảnh tháng Giêng vỡ bên thềm

Nỗi buồn nào rồi thì cũng phai, vết thương nào rồi cũng tới ngày lành. Thế nhưng bài thơ mang tên “Vết
thương” xem ra rất khó lành. Nhà thơ ngập ngừng lắm mới mở được lòng ra thăm dò
vết thương năm cũ, mà chao ơi, vết thương tuy đã kéo da non nhưng không có dấu
hiệu nào cho thấy nó sẽ lành lặn. Nó vẫn đau phía bên trong. Vẫn cần được thăm
nom trong những ngày tháng tới.

Được sáng tác vào năm 1991 bài thơ “Vết thương” báo hiệu với chính nhà thơ về sự cạn kiệt dần quỹ thời
gian trên hai khóe mắt. Quê nhà vẫn xa xa chơi trò cút bắt trong khi người yêu
nay đã kiệt cùng nỗi nhớ. Bài thơ nhẹ nhàng nhưng cay đắng chen lẫn mỏi mệt của
tháng ngày chồng chất:

Anh ạ! Tháng Tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà hun hút sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương

Năm tháng qua mau quên đếm tuổi
trong gương mắt đã rạn chân chim
em nhuộm nỗi buồn như nhuộm tóc
vết thương đóng vảy nhói trong tim

Anh ạ! Tháng Tư sương mỏng
lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra
vào mắt
mờ khuất trong em mọi ngã về.

“Sương mỏng nhưng sao
nhìn mãi chẳng thấy quê!”

Câu thơ nhẹ mà đau như dao cắt.

Em ở nơi này mười bảy năm
có khi cất tiếng gọi
dòng sông
có lúc bóng chùng lên bóng núi
sao núi sông vẫn đỗi lạ lùng

Nắng hạ cũng vàng thêu áo lụa
chẳng ai níu vạt tặng câu thơ
chữ hiếu như kim chìm đáy biển
chữ tình gió thổi đến xác xơ

Em ở nơi này mười bảy năm
buông vào nhật nguyệt nắm tuổi xuân
cầm như thả tuyết vào lò sưởi
những cánh hoa tan dưới lửa hồng

Tóc đã sợi đen chen sợi trắng
mắt cười đã lụn bấc đam mê
người vẫn từ quê ngơ
ngác đến
ngượng môi không dám nhắc…chuyện về

Cảm tác bài thơ “Ta về”của
Tô Thùy Yên, Trần Mộng Tú ghi lại những nốt trầm của 17 năm xa xứ. Bài thơ “17
năm 17 đoạn thơ
” mà chúng ta vừa nghe man mác cái tứ của thất ngôn, thể loại
thơ gần với “hành”, với gươm cùn, với ngựa mỏi…Người đọc chia sẻ không khí cổ
xưa trong bài thơ qua những từ rất cũ như chữ hiếu, chữ tình, cầm như…thế nhưng
toàn bài thơ lại toát lên cái tứ rất mới, rất đa nghĩa và nhất là mang đậm nỗi
nhớ tươi roi rói nhưng đôi khi ngơ ngác đến tội nghiệp.

Không phải lúc nào Trần Mộng
Tú cũng cứng cỏi, mạnh mẽ của thất ngôn, bà sử dụng lục bát cũng bén và đa chiều
đến bất ngờ. Chỉ với bốn câu trong bài “Mưa Seattle”, Trần Mộng Tú đã dẫn dụ
người đọc đứng trước cái mênh mông của một sợi tóc mỏng manh:

Sáng nay ra phố gội đầu
giọt mưa sợi tóc ôm nhau khóc òa
cong tay hứng hạt mưa sa
mưa giăng mắt lưới xóa nhòa chỉ tay

Mưa
và tóc, hai hình tượng nhạt nhòa trong bốn câu thơ trên gây cảm giác người phát
hiện ra chúng đang tan dần vào số phận, vào định mệnh, vào những đường chỉ tay
đầy bất trắc…

Những bài thơ cuối trong Tập
Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm 1969-2009 của
Trần Mộng Tú được lật sang trang của những năm hai ngàn, những
năm đầu trong thiên niên kỷ mới. Và, nhà thơ, cũng như mọi người khác, hăm hở bắt
đầu bằng hy vọng. Qua bài “Nhìn Nhau Rất Xa” bà viết:

Sáng đầu năm hồn em chắp cánh
bay lơ mơ vào một kỷ nguyên
dĩ vãng như bức tường trong suốt
bụi hôm qua rũ lại bên thềm

Em giấu em ở trong hạt gạo
nằm rất ngoan giữa những chân nhang
đợi tiếng giầy anh chạm bực cửa
về chia nhau một thế kỷ tàn

Đóa thủy tiên của ngày rất mới
đang quay đầu nhìn thế kỷ qua
những viên sỏi đã thành cổ tích
anh và em nhìn nhau rất xa

Và một hôm bà trở về nhà.

Việc đầu tiên là nhà thơ
chia sẻ cái hạnh phúc mà bà có cho người yêu. Cái mà nhà thơ muốn chia trong
bài thơ là một chút thân ái mà bà đánh mất nhiều năm, hôm nay gặp lại bà viết
Trong bài “Chia nhau Hà Nội”:

Em gửi cho anh
chiếc lá bàng cuối thu Hà Nội
hồi chuông giáo đường
buổi sớm tinh mơ góc phố Nhà Chung có bầy
sẻ nhỏ
một con rất gầy
đứng hót ngu ngơ

Em gửi cho anh
ly cà phê buổi tối
mùi ngô non
nướng dưới cột đèn
mảnh than nhỏ sưởi mùa thu sắp hết
hơ gót chân ai
hồng giữa phố đêm

Em gửi cho anh
chiếc kiềng bạc trạm
đang khoe mình
làm mới phố Hàng Gai
ảnh mẹ chụp mấy mươi
năm về trước
một chiếc giống thế này

Em gửi cho anh
đất trời Hà nội
để anh nhớ về thành phố
tuổi thơ
nơi hạnh phúc là một
viên kẹo bột

được bạn chia cho trong
một lúc.

Ai là người may mắn này?
Không biết! có thể là “anh” của Sài Gòn người trước khi chia tay. Có thể là
“anh” của chốn dung thân, người từ bên kia bờ đại dương ngóng theo bước chân bà
trong những ngày vacation ngắn ngủi. “Anh” cũng có thể là tiềm thức, là nhớ
nhung là trăn trở và tại sao không, những mất mát cần tìm…

Quý vị vừa theo dõi một
vài tác phẩm của nhà thơ Trần Mộng Tú trong tuyển tập “Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm1969-2009”. Hy vọng qua những
bài thơ này, quý vị sẽ tìm thấy đôi điều đồng cảm vói nhà thơ, người luôn chăm
chút nỗi buồn có tên “quê hương” nỗi buồn mà ai trong chúng ta cũng đã ít nhiều
kinh nghiệm….

 

AcDieu

Tin Buồn

2014

01-2014

02-2014

TIME